lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại điều 174/175, Bộ luật hình sự năm 2015 thì nợ xấu nhóm 5 có thể bị khởi kiện vì hành vi lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản. Do đó, nếu gặp sự cố và không còn đủ khả năng thanh toán nợ đúng hạn thì bạn nên liên hệ ngay với ngân hàng/ tổ chức tín dụng để được hỗ trợ gia hạn khoản vay, không nên trốn tránh, bùng nợ.
"Có cả những bị can nguyên là cán bộ cấp cao lợi dụng tinh vi hơn, điển hình như sử dụng mạng viễn thông, mạng máy tính để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tín dụng đen, tổ chức đánh bạc, cá độ bóng đá, đánh cắp thông tin chiếm đoạt tài khoản của khách
Theo như quy định của nhà nước về tội lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản. Những người nào có hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên là đã bị khởi kiện. Quy định như sau:
Ông Nguyễn Xuân Hưng (trú quận Đống Đa, Hà Nội), đã gửi đơn tố cáo bà Đỗ Minh Thu lợi dụng lòng tin, chiếm đoạt tài sản là chiếc ô tô TOYOTA, nhãn hiệu Furtuner, mang BKS: 29A-601.44. Cụ thể, từ năm 2013, bà Thu mượn xe của ông Hưng rồi đi thế chấp để vay tiền của ông Hùng (33 Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội), do không trả nợ nên chiếc ô tô bị bán đứt.
Dự hợp đồng vay vốn với chữ ký, con dấu giả, tạo lòng tin chiếm đoạt tiền của nhiều khách hàng. Vệc lợi dụng chức vụ, lạm dụng tín nhiệm của các cán bộ TD, NH từ cán bộ và lãnh đạo đã có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lạm dụng sự tín nhiệm mà lừa đảo chiếm đoạt các số tiền lớn của cá nhân, tổ chức, sử dụng múc đích cá nhân.
Tin tức nhanh chóng 24h sẽ được cập nhật tại kinhtemoi.vn. Tòa soạn báo tốt nhất chỉ có tại HCM. Thông tin doanh nghiệp; Thị trường - Bất động sản. Bất động sản; Thị trường chứng khoán; Đời sống - Tiêu Dùng; Giáo dục - Sức khoẻ
isunopel1979. TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANGBẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢNNgày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2022/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáoHọ và tên Hoàng Văn T, sinh năm 1995 tại huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú Tổ dân phố Đông H, thị trấn Nham B, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp Lao động tự do; trình độ văn hóa 09/12; dân tộc Kinh; giới tính Nam; tôn giáo Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Lương Thị H; Vợ, con Chưa có;-Tiền án Ngày 21/01/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Yên D xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/7/ Tiền sự Không;- Nhân thân+ Ngày 18/01/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Yên D xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;+ Ngày 25/12/2020, bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên D khởi tố về tội "Trộm cắp tài sản".Bị cáo bị bắt truy nã, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang trong một vụ án khác có mặt tại phiên Tòa.- Bị hại Anh Lê Văn T, sinh năm 1998, địa chỉ Thôn Liêm X, xã Song K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Dương Đại L, sinh năm 1966; địa chỉ Số 1A, ngõ 10, phường Thành C, quận Ba Đ, thành phố Hà Nội.vắng mặt2. Ông Dương Thanh B, sinh năm 1943; địa chỉ Xóm T, xã Nội H, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt3. Chị Lê Thị L, sinh năm 1987; địa chỉ Thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt4. Anh Vũ Văn H, sinh năm 1988; địa chỉ Thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt- Người làm chứng1. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1999.vắng mặt2. Anh Nguyễn Huy H, sinh năm 1995.vắng mặt Đều địa chỉ Xóm T, xã Nội H, huyện Yên D, tỉnh Bắc DUNG VỤ ÁNTheo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau Hoàng Văn T, sinh năm 1995, ở Tổ dân phố Đông H, thị trấn Nham B, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang có mối quan hệ quen biết với anh Lê Văn T, sinh năm 1998 ở thôn Liêm X, xã Song K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc Giang. Do trước đó, Thể có quên giấy chứng minh nhân dân ở một nhà nghỉ T không nhớ tên cụ thể tại thị xã Từ S nay là thành phố Từ S, tỉnh Bắc Ninh, biết anh Thắng có xe mô tô, nên buổi trưa ngày 23/4/2018, khi đang chơi điện tử tại quán Internet ở thôn N, xã Nội H, huyện Yên Dũng, T có nhắn tin qua mạng xã hội Facebook cho anh T để hỏi mượn xe mô tô anh Thắng để đi lấy giấy chứng minh thư nhân dân thành phố Từ S, tỉnh Bắc N thì được anh T đồng ý. Khoảng 12 giờ cùng ngày, anh T đi xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 đến quán Internet ở thôn N, xã Nội H trên đón T, sau đó cả 2 đi đến Tổ dân phố My Đ, thị trấn N, huyện Việt Y, tỉnh Bắc Giang rồi anh T giao xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 cho T. Mượn được xe, T điều khiển xe mô tô đi lấy chứng minh thư nhân dân ở thành phố Từ S, tỉnh Bắc Ninh. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, sau khi lấy chứng minh thư nhân dân xong, T điều khiển xe trở về quán Internet ở thôn N, xã Nội H, huyện Yên Dũng chơi điện tử. Khi về đến quán, do không có tiền tiêu sài, T nảy sinh ý định đem xe mô tô mượn của anh T đem đi cắm lấy tiền nên T không vào quán Internet chơi nữa mà đi xe mô tô đến cửa hàng mua bán xe máy của anh Vũ Văn H, sinh năm 1985, ở thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D nói dối là xe của Thể cắm cho chị Lê Thị L, sinh năm 1987 là vợ của anh H được đồng dưới hình thức viết giấy vay tiền, trong đó cắt lãi đồng cho chị H luôn, còn T cầm đồng, dùng ăn tiêu cá nhân hết không có khả năng chuộc lại xe trả cho anh T. Sau đó, Thể bỏ trốn khỏi địa với anh Lê Văn T, sau khi cho Thể mượn xe không thấy T đem quay lại trả, anh T liên lạc nhiều lần nhưng không được, nên đã làm đơn trình báo ra cơ quan công khi nhận đơn trình báo, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, điều tra, ngày 15/5/2018 và ngày 30/5/2018, cơ quan điều tra đã thu giữ tại cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Vũ Văn H ở thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D chiếc xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1; 01chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Văn T và 01 giấy biên nhận vay tiền do T kết luận định giá tài sản số 34 ngày 28/5/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Yên D kết luận Chiếc xe mô tô T chiếm đoạt của anh H trị giá là 28/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên D trưng cầu giám định đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang để giám định chữ viết, chữ ký trên giấy "BIÊN NHẬN VAY TIỀN" đề tên Hoàng Văn T. Tại bản kết luận giám định số 06 ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận "Chữ ký dạng chữ viết, chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết của Hoàng Văn T trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1, M2 là do cùng một người ký, viết ra".Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 mang tên ông Dương Đại L, ông L đã bán lại cho ông Dương Thanh B là ông ngoại của anh Lê Văn T. Ngày 20/8/2018, Cơ quan điều tra trả lại cho ông Dương Thanh B chiếc xe mô tô trên, ông B đã nhận lại và không có yêu cầu đề nghị với chị Lê Thị L có hành vi nhận cầm cố chiếc xe mô tô do T đem đến cắm, nhưng chị L không biết đó là tài sản do T phạm tội mà có, ngoài lời khai, không có chứng cứ khác nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Ch ị L yêu cầu T hoàn trả cho chị đồng, đến nay T chưa trả lại chị với 01 giấy chứng minh thư nhân dân của Thể được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên D để giải quyết theo quy Cơ quan điều tra, Hoàng Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu Bản Cáo trạng số 06/CT -VKSYD ngày 06/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình phiên tòaBị cáo Thể khai nhận nội dung diễn biến sự việc như bản Cáo trạng nêu là đúng, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh, điều, khoản trên là đúng, không oan. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo nhất trí trả lại số tiền đồng cho chị Lê Thị L. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị đồng xét xử công bố lời khai của những người tham gia tố tụng được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án vẫn giữ nguyên quyết định như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Thể từ 10 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành trách nhiệm dân sự Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 579 Bộ luật Dân sự năm 2015 BLDS Buộc bị cáo Hoàng Văn Thể phải hoàn trả cho chị Lê Thị Lới số tiền Xử lý vật chứng Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS trả lại Hoàng Văn Thể 01 chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Văn T nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phí Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu đồng án phí hình sự sơ thẩm và đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp ĐỊNH CỦA TÒA ÁNTrên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Yên D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp phiên tòa hôm nay bị hại anh Lê Văn T; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Dương Đại L, ông Dương Thanh B, chị Lê Thị L, anh Vũ Văn H;người làm chứng anh Nguyễn Văn V, anh Nguyễn Huy H vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 292, điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ.[2]. Xét về tội danh Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm. Có đủ cơ sở kết luận Hồi 15 giờ ngày 23/4/2018, tại thôn Nội, xã Nội H, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang, Hoàng Văn T có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 01 xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 trị giá đồng của anh Lê Văn T, sinh năm 1998, ở thôn Liêm X, xã Song K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc Giang sau đó đem đi cắm được đồng dưới hình thức viết giấy vay, trong đó cắt lãi cho chị L đồng, còn T cầm đồng, dùng chi tiêu cá nhân hết. Cơ quan điều tra đã thu giữ được tài sản trả lại bị vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 06/CT -VKSYD ngày 06/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang truy tố đối với Hoàng Văn T là đúng người, đúng tội.[3]. Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người dân. Bị cáo đã lợi dụng quan hệ và lòng tin của chủ sở hữu thực hiện hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo nhận thức được hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội này.[4]. Xét về nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấyVề nhân thân Bị cáo Hoàng Văn T có nhân thân xấu. Ngày 18/01/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Yên D xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; ngày 25/12/2020, bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên D khởi tố về tội "Trộm cắp tài sản".Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Bị cáo T đã có tiền án chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học, nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nên phải chịu tình tiết tăng nặng là Tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.[5]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, bản thân bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.[6]. Về hình phạt bổ sung Hiện nay bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.[7]. Về xử lý vật chứng 01 chứng minh thư nhân dân tên Hoàng Văn T không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo.[8]. Về trách nhiệm dân sự Đối với chị Lê Thị L yêu cầu bị cáo T trả cho chị số tiền đồng. Hội đồng xét xử thấy bị cáo Thể mang xe đi cắm cho chị L được đồng dưới hình thức viết giấy vay, trong đó cắt lãi cho chị L đồng, còn T cầm đồng, dùng chi tiêu cá nhân hết. Khi nhận cầm cố thì chị L không biết là tài sản do thể phạm tội mà có, chiếc xe đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Do vậy, yêu cầu của chị L là phù hợp với khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 579 BLDS nên cần chấp nhận.[9]. Về án phí Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.[10]. Về quyền kháng cáo Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, để Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng các lẽ trên,QUYẾT cứ điểm b khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50, Điều 47, khoản 1 Điều 48 BLHS; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 579 BLDS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa phạt Bị cáo Hoàng Văn T 10 tháng tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành trách nhiệm dân sự Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải hoàn trả cho chị Lê Thị L số tiền đồng Bốn triệu năm trăm nghìn đồng chẵn.Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền phải thi hành án thì người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành lý vật chứng Trả lại 01 chứng minh thư nhân dân tên Hoàng Văn T cho bị cáo Hoàng Văn T nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành Về án phí Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu đồng Hai trăm nghìn đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và đồng án phí dân sự sơ Về quyền kháng cáo Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân
Lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản đang là vấn đề vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Vậy hiểu thể nào cho đúng về làm dụng chiếm đoạt tài sản? Phân biệt chiếm đoạt tài sản và lạm dụng chiếm đoạt tài sản? Lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản xảy ra khi thủ phạm lợi dụng lòng tin của nạn nhân để chiếm đoạt tài sản. Hành vi này được thể hiện về mặt hình sự là tội phạm, người thực hiện hành vi này phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có các điều kiện khác về đối tượng, tội danh…. Quy định pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 175 Chương XVII Bộ luật hình sự số 100/2015 / QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26 tháng 11 năm 2017 sau đây Bộ luật hình sự. Bộ luật viết tắt ghi tên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau “Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Một người thực hiện một trong các hành vi sau đây là chiếm đoạt tài sản của người khác. Người có giá trị từ đồng đến dưới đồng hoặc dưới đồng mà đã bị xử phạt vi phạm hành chính về tội chiếm đoạt tài sản hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản. Bộ luật này, hoặc đối với bất kỳ tội nào nêu tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này chưa bị trấn áp nhưng vẫn phạm tội, hoặc tài sản là sinh kế chính của nạn nhân và người thân thích của họ, bị phạt tù đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm Mượn, thuê tài sản của người khác hoặc lấy tài sản của người khác theo hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để có được tài sản đó hoặc không trả lại tài sản không kịp thời dù có một số điều kiện nhất định. Sự kiện, năng lực, tuy nhiên, cố tình không trả hết; Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người khác theo hình thức hợp đồng và sử dụng tài sản đó vào mục đích trái pháp luật dẫn đến không trả lại được tài sản. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm i Có tổ chức; ii Có tính chất chuyên nghiệp; iii Chiếm đoạt tài sản trị giá từ đồng đến dưới đồng; iv Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; v Dùng thủ đoạn xảo quyệt; vi Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; vii Tái phạm nguy hiểm. Có thể bạn quan tâm tái phạm và tái phạm nguy hiểm Nếu phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá đồng đến dưới đồng thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm. Nếu phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá đồng trở lên thì bị phạt tù. từ 12 đến 20 năm. Người vi phạm cũng có thể bị phạt 000 đồng đến đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm làm nghề, hoạt động nhất định hoặc bị tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản từ 01 năm đến 05 năm.
Trong cuộc sống có nhiều mối quan hệ khác nhau nhưng không phải mối quan hệ nào cũng được xem trọng và đối xử với nhau một cách thật lòng. Đặc biệt là lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm xâm phạm đến chế độ sở hữu được Bộ Luật hình sự bảo vệ. Trong phạm vi bài viết dưới đây, Luật Rong Ba xin đưa ra một số ý kiến bình luận về lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản, hãy cùng chúng tôi theo dõi nhé! Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác bằng nhiều thủ đoạn lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm lòng tin trên cơ sở hợp đồng và sự tin tưởng nhân thân của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Người có hành vi phạm tội lạm dùng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý như thế nào? Theo quy định của pháp luật thì một hành vi bị xem là tội phạm khi nó có đầy các yếu tố của tội phạm lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm như chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Thế nào là lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản? Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Tội lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản quy định lần đầu tiên tại Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, đây là tội được nhập từ tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 1985, nhưng chỉ đến khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành thì Tội này mới được quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “ 1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ đồng đến dưới đồng hoặc dưới đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm a Có tổ chức; b Có tính chất chuyên nghiệp; c Chiếm đoạt tài sản trị giá từ đồng đến dưới đồng; d Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm a Chiếm đoạt tài sản trị giá từ đồng đến dưới đồng; b Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Theo quy định trên thì tội lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản Giá trị tài sản bị chiếm đoạt tài sản phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên thì mới phạm vào tội này, nếu dưới bốn triệu đồng thì phải hội đủ các điều kiện khác của điều luật như đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và điều 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì mới phạm vào tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Dấu hiệu của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Về chủ thể của tội phạm Có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các điểm mới của Bộ luật hình sự 2015 so với Bộ luật hình sự 1999, bộ luật mới đã có sự tách bạch rõ ràng hơn về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Về khách thể của tội phạm Khách thể của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tộ lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội Cướp tài sản, tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội Cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Về Mặt chủ quan của tội phạm Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý cố ý trực tiếp. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Về Mặt khách quan của tội phạm Hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được cấu thành khi thuộc một trong các trường hợp sau i Giá trị của tài sản chiếm đoạt của người khác từ đồng trở lên; ii Giá trị tài sản chiếm đoạt dưới đồng nhưng đã bị xử lý phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội về xâm phạm sở hữu khác, như Tội Cướp tài sản, tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội Cưỡng đoạt tài sản, tội Cướp giật tài sản, tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội Trộm cắp tài sản, tội Sử dụng mạng máy tính, mạng Viễn thông, phương tiện Điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; iii Tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống của chính người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với Người bị hại và gia đình họ. Những hành vi khách quan cần đáng lưu ý sau i Người phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp thông qua các hợp đồng vay, mượn thuê tài sản của người khác hoặc bằng hình thức khác. Sau khi có được tài sản người phạm tội mới dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; ii Nếu người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Điểm mới của tội lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản So với Điều 140 Bộ luật hình sự 1999 thì Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 đã có những thay đổi mang tính hoàn thiện hơn hành lang pháp lý đối với tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thứ nhất, thay đổi về nội hàm của khái niệm “hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” Theo Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định 03 loại hành vi là hành vi khách quan của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đó là Sau khi vay, mượn, thuê, tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng, chủ thể đã thực hiện một trong 03 hành vi sau Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó; Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; Sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Tuy nhiên, Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định thêm 01 loại hành vi là hành vi khách quan của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đó là hành vi “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”, đồng thời bỏ hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” ra khỏi khái niệm “hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đây chính là một bước hoàn thiện rõ rệt của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Hành vi khách quan của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt và phải là chiếm đoạt được. Khác với hành vi chiếm đoạt ở các tội phạm khác, hành vi chiếm đoạt ở tội này là sự vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản bằng hành vi chiếm đoạt. Có thể hiểu Chiếm đoạt là hành vi cố ý trực tiếp làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực tế thực hiện quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với tài sản của mình và tạo ra cho người phạm tội khả năng thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Dựa trên cơ sở đó, xem xét đến hành vi của người nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng vay, mượn, thuê… tài sản sau đó khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Hành vi “cố tình không trả” là hành vi vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi này làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình trên thực tế và tạo cho chủ thể vay, mượn, thuê… tài sản khả năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó như tài sản của mình; Như vậy, hành vi đó là hành vi chiếm đoạt và mang bản chất của hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy vậy, hành vi này chưa được quy định là một hành vi khách quan của tội lợi dụng tín nhiệm tài sản chính là một bất cập của Bộ luật Hình sự năm 1999. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã hình sự hóa hành vi nói trên, không chỉ là một bước hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mà qua đó còn tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh với các thực trạng đang rất “nóng bỏng” hiện nay như “quỵt nợ”, “vỡ tín dụng”, “đòi nợ thuê”… Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Như vậy cần lưu ý, việc chuyển giao tài sản từ người bị hại sang người phạm tội xuất phát từ một hợp đồng hợp pháp như vay, mượn, thuê tài sản. Sau khi đã nhận được tài sản, người phạm tội mới dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý; về thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Nếu người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối mà sau khi đã nhận tài sản một cách hợp pháp rồi bỏ trốn với ý thức không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản ý thức chiếm đoạt tài sản thì cũng là hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khi đánh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc tránh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Nếu người phạm tội không có hành vi gian dối, không bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản nhưng lại dùng tài sản đó tài sản nhận từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hiểu như thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề không đơn giản, nếu theo khái niệm thông thường thì “bất hợp pháp” là không đúng với pháp luật không phân biệt đó là pháp luật gì và nếu hiểu bất hợp pháp theo nghĩa rộng như vậy thì hấu hết các trường hợp mất khả năng thanh toán nợ cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đều là hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, xem xét đến hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản”, ta thấy Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã không quy định hành vi này là hành vi khách quan của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là đúng đắn, bởi lẽ Trên thực tế, những người nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng vay, mượn, thuê… tài sản sau đó “bỏ trốn” trốn khỏi nơi cư trú, nơi làm việc sẽ thuộc một trong hai trường hợp Một là, người vay, mượn, thuê… tài sản vì một lý do nào đó đã không còn khả năng trả lại tài sản Trong trường hợp lý do đó là khách quan như Kinh doanh thua lỗ…, hành vi “không trả lại tài sản” của người đó không có lỗi cố ý trực tiếp nên không phải là hành vi chiếm đoạt, việc người đó bỏ trốn chỉ là “bất đắc dĩ” do “vỡ nợ” chứ không phải là một thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản. Còn trong trường hợp lý do dẫn đến việc người đó không có khả năng trả lại tài sản là do lỗi chủ quan Người đó đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp ví dụ Đánh bạc, buôn lậu…, thì hành vi này là hành vi chiếm đoạt, vì hành vi sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là sự định đoạt trái pháp luật của chủ thể đối với tài sản không phải của mình người đó đương nhiên nhận thức rõ được tính trái pháp luật này và do đó, hành vi này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và làm cho chủ tài sản mất hẳn tài sản; nhưng trường hợp này đã được quy định là một hành vi khách quan của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hai là, người vay, mượn, thuê… tài sản có khả năng trả lại tài sản nhưng bỏ trốn cùng với số tài sản nhận được Trường hợp này trùng với trường hợp “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”, chính hành vi bỏ trốn cùng số tài sản nhận được đã thể hiện thái độ “cố tình không trả” của chủ thể. Như vậy, việc Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã hình sự hóa “hành vi khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” thành một hành vi khách quan của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đồng thời phi hình sự hóa “hành vi bỏ trốn” trong tội này, là một bước tiến rõ rệt trong việc hoàn thiện các quy định của luật hình sự về tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 còn bỏ chữ “để” trong cụm từ “dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó” tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, thành “dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó”, đây cũng là một bước tiến của Bộ luật Hình sự năm 2015, nhằm tránh việc dấu hiệu chiếm đoạt trong tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bị nhầm lẫn thành “mục đích chiếm đoạt” thay vì là “hành vi chiếm đoạt được” như đúng bản chất pháp lý của tội này. Thứ hai, thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt Điểm e khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 sử dụng các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” làm tình tiết định khung hình phạt của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nhưng cũng như ở các tội khác, Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định các tình tiết này làm tình tiết định khung hình phạt, đây cũng chính là một điểm mới mang tính tiến bộ của Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi lẽ Một là, đây là những “hậu quả gián tiếp” do hành vi phạm tội gây ra, mà việc định tội, định hình phạt đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải căn cứ vào hậu quả trực tiếp của hành vi nguy hiểm cho xã hội, chứ không phải là hậu quả gián tiếp hậu quả mang tính chất suy diễn và nằm ngoài khả năng dự đoán của người phạm tội. Hai là, những “hậu quả nghiêm trọng” hay “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng” như trên mang tính không cụ thể, nếu quy định vào trong luật như Bộ luật Hình sự năm 1999, thì sẽ dẫn đến việc phải có văn bản hướng dẫn dưới luật thì mới thi hành được luật, mà luật hình sự thì phải cụ thể và rõ ràng, dễ hiểu để mọi người đều có thể hiểu và thi hành, tránh phát sinh nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật. Như vậy, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 cụ thể hơn và mang tính tiên liệu thực tiễn cao hơn Bộ luật Hình sự năm 1999. Bên cạnh đó, điểm b khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thêm tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” làm tình tiết định khung hình phạt, quy định này là hợp lý và cần thiết để răn đe, trừng trị đối với những người mà tính “bất tín” đã trở thành bản tính. Thứ ba, thay đổi về các mức hình phạt Các mức hình phạt quy định tại khoản 3, 4, 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đều theo hướng có lợi hơn cho người phạm tội so với khoản 3, 4, 5 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999. Khoản 3 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù, không có khoảng giao thoa với khoản 2. Còn khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 05 năm đến 12 năm tù, có khoảng giao thoa với khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 và nhẹ hơn khoản 3 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999. Khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù, không áp dụng tù chung thân, có lợi hơn cho người phạm tội so với khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, nhưng lại không có khoảng giao thoa với khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc không có khoảng giao thoa này cần phải xem xét lại, vì rõ ràng hành vi “lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị đồng và có thêm tình tiết tăng nặng khác” nguy hiểm hơn hành vi “lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị đồng và không có thêm tình tiết tăng nặng” thậm chí là có thể có thêm 01 tình tiết giảm nhẹ, nhưng mức hình phạt cho hành vi thứ nhất không thể quá 12 năm, còn mức hình phạt cho hành vi thứ hai thì lại không thể dưới 12 năm. Khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 về cơ bản là giống với khoản 5 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, chỉ khác ở chỗ Khoản 5 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hình phạt “bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” có thể được áp dụng đồng thời với hình phạt “bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, tức là người phạm tội có thể vừa bị mất tài sản lại vừa bị “mất nghề”, nhưng theo khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì chỉ được áp dụng một trong hai hình phạt bổ sung này, như vậy là nhân đạo hơn với người phạm tội. Tóm lại, có thể nói, đối với tội lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản, Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới mang tính khoa học, hợp lý, cụ thể, rõ ràng, nhân đạo và hoàn thiện hơn hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về nội dung lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về pháp luật hình sự và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm. một cách nhanh chóng nhất.
Trong cuộc sống, bạn bè, người thân quen vay mượn tài sản của nhau là việc bình thường. Tuy nhiên, nhiều đối tượng lại lợi dụng lòng tốt, sự tin tưởng và bất cẩn của bạn bè, người thân để chiếm đoạt tài sản. Mượn quần, chiếm đoạt luôn tiền bạn bỏ quênNhà anh tại xã Đức Mạnh Đắk Mil chuẩn bị có tiệc mừng tân gia nên đã nhờ người bạn cùng xã với mình là SN 1990 đến phụ giúp dọn dẹp. Trong lúc làm, Đ bị bẩn quần và hỏi mượn quần của anh L để mặc. Không nề hà, anh L liền đồng ý và đi vào phòng ngủ lấy chiếc quần Jean của mình cho bạn mượn. Khi mặc quần, Đ phát hiện trong túi quần có số tiền 11,2 triệu đồng do anh L để quên trong túi mà không tham nổi lên, Đ không đưa tiền trả cho L như lẽ thường tình mà âm thầm nghĩ cách chiếm đoạt số tiền. Đ đã điện thoại nhờ SN 1996 đến chở mình về và nhờ D giữ hộ 10,6 triệu đồng, còn mình thì đem đồng để tiêu xài cá hiện mất tiền, anh L đã gặp và yêu cầu trả lại tiền cho mình nhưng Đ không trả nên anh L trình báo đến Công an xã Đức Mạnh. Thấy vậy, anh D đã giao nộp số tiền 10,6 triệu đồng cho Công an xã Đức 22/1 vừa qua, Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Đắk Mil đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với về tội "chiếm giữ trái phép tài sản" quy định tại Điều 176 của Bộ luật Hình sự để tiến hành điều tra, xử lý theo quy định của pháp không chỉ là bài học cho các đối tượng, mà còn là lời cảnh tỉnh cho những ai không chịu làm mà lại muốn có tiền từ việc lừa gạt, chiếm đoạt tài sản của người khác. Bên cạnh đó, mỗi người dân cần đề cao cảnh giác, nên “chọn mặt gửi vàng” khi cho người khác mượn tài thời, mọi người phải có ý thức bảo vệ tài sản, cẩn thận kiểm tra, cất giữ tiền bạc, giấy tờ và tài sản có giá trị của bản thân, không để người khác có cơ hội trộm cắp, chiếm đoạt tài sản của xe, đem đi cầm lấy tiền tiêu xàiTrước đó, Trần Văn Thanh SN 1995 trú tại xã Quảng Tân Tuy Đức cũng bị cơ quan chức năng khởi tố điều tra về tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" khi mượn tài sản có giá trị của người khác để đem đi cầm cố, lấy tiền tiêu đó, Thanh đến chơi tại quán cà phê trên địa bàn thị trấn Kiến Đức Đắk R’lấp do anh Vương Công Đ và chị Cao Thị N làm chủ. Ngồi chơi một lúc, Thanh mượn chiếc xe mô tô của chị N để đi công việc, hẹn 1 tiếng sau sẽ trả Thanh cũng là chỗ quen biết nên chị N đã đồng ý cho mượn. Khi Thanh dừng xe để đổ xăng thì thấy trong cốp xe có đầy đủ giấy tờ xe và CMND của chị N nên nảy sinh ý định cầm cố chiếc xe để lấy tiền chơi game. Sau đó, Thanh đến tiệm cầm đồ trên địa bàn để cầm cố xe lấy 15 triệu đồng, thời hạn cầm là 15 tiền, Thanh liền nạp tiền vào tài khoản game và chơi thua hết tiền. Muốn gỡ gạc, Thanh tiếp tục đến tiệm cầm đồ lấy thêm 7 triệu đồng để nạp tiền chơi game tiếp. Chờ lâu không thấy Thanh trả xe, chị N gọi điện nói đưa xe về trả cho mình. Nghe vậy, Thanh quay lại quán cà phê và nói với chị N là đã mang xe đi cầm, đồng thời, hẹn đến tối cùng ngày sẽ chuộc xe trả lại. Tuy nhiên, Thanh vẫn không chuộc lại xe trả lại cho chị N nên chị N làm đơn tố cáo hành vi của Thanh đến Công an huyện Đắk R’lấp.
lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản